Đảm bảo việc làm cho lao động di cư theo pháp luật Việt Nam – Thực trạng và những kiến nghị
![](https://luatlaodong.com.vn/wp-content/uploads/2024/04/8.jpg)
Đảm bảo việc làm cho lao động di cư theo pháp luật Việt Nam – Thực trạng và những kiến nghị
TS Phạm Thị Hải Dịu
Học viện Tòa án
Đặt vấn đề
Di cư lao động là một hiện tượng tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tại các thành phố và các khu công nghiệp lớn, lực lượng lao động di cư chiếm khoảng 70% lực lượng lao động.1 Lao động di cư thường có trình độ tay nghề thấp, chưa được đào tạo nghề, hạn chế về kiến thức pháp luật và tác phong công nghiệp. Hơn nữa, lao động di cư thường có công việc không ổn định, lâu dài.2 Vì vậy, đảm bảo việc làm cho nhóm đối tượng này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng cuộc sống và đáp ứng các nhu cầu tối thiểu cho họ.
Từ khoá: đảm bảo việc làm, lao động di cư, pháp luật Việt Nam, việc làm
Tốc độ toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng đã tạo ra nhiều lao động nhập cư hơn bao giờ hết. Thất nghiệp và nghèo đói gia tăng đã khiến nhiều công nhân ở các nước đang phát triển phải tìm việc làm ở nơi khác. Ước tính có 73% người di cư là công nhân.3 Trong phạm vi quốc gia, hiện tượng di cư cũng xảy ra phổ biến giữa các địa phương, vùng, miền, các thành phố và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Trong phạm vi bài viết, lao động di cư được nghiên cứu là lao động di cư trong phạm vi một quốc gia. Cụ thể, bài viết dưới đây sẽ phân tích các biện pháp đảm bảo tiếp cận việc làm cho lao động di cư và thực trạng pháp luật Việt Nam về đảm bảo việc làm cho nhóm đối tượng này, từ đó, đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đảm bảo việc làm cho lao động di cư.
1. Một số vấn đề lý luận về đảm bảo việc làm cho lao động di cư
1.1 Khái niệm việc làm và lao động di cư
Để nghiên cứu khái niệm việc làm một cách toàn diện cần tiếp cận nó dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ kinh tế – xã hội, việc làm luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của loài người bởi việc làm cần được thực hiện với lý trí, ý chí và tình cảm.
Việc làm là công việc cụ thể hay nhóm công việc thuộc hệ thống ngành nghề kinh tế quốc dân, được thực hiện bởi người lao động (NLĐ) với mục đích là tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho bản thân họ, cho tập thể mà họ là thành viên, cho xã hội.4 Việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân và với xã hội. Người không có việc làm, người bị mất việc làm rơi vào tình trạng thất nghiệp có thể gây nên hậu quả tiêu cực đối với bản thân và gia đình họ. Việc làm rất quan trọng đối với hạnh phúc của một người, mang lại cho con người giá trị sống, phát huy được khả năng của bản thân và đảm bảo các nhu cầu của cuộc sống. Công việc cứu con người khỏi ba tệ nạn lớn: buồn chán, thói xấu và nhu cầu.5 Việc làm và thất nghiệp còn là một trong những yếu tố phản ánh trạng thái kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Như vậy, xét dưới góc độ kinh tế – xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận.6
Dưới góc độ pháp lý, quyền có việc làm là quyền con người cơ bản được pháp luật các quốc gia thừa nhận. Theo đó, các hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động đều được Nhà nước khuyến khích.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế thì “Việc làm là công việc được trả công. Việc làm cũng đề cập tới số lượng người tham gia làm việc để được trả công và những người tự tạo việc làm”.7 Cũng theo tổ chức này, người có việc làm được hiểu là người làm một công việc nào đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.8 Ở Việt Nam, khái niệm việc làm chính thức được ghi nhận từ Bộ luật Lao động năm 1994 tại Điều 13 “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Bộ luật Lao động năm 2019 cũng kế thừa quan điểm của Bộ luật Lao động năm 1994 khi đưa ra định nghĩa về việc làm, theo đó việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Các định nghĩa này về việc làm cho thấy 03 yếu tố cấu thành nên việc làm là: hoạt động lao động; tạo ra thu nhập và hợp pháp.
Di cư là hệ quả tất yếu của sự phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế sâu rộng. Di cư đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Theo nghiên cứu, người di cư tham gia vào vô số hoạt động kinh tế, cả lao động nhập cư tay nghề thấp và tay nghề cao đã lấp đầy tình trạng thiếu lao động, tạo điều kiện tăng năng suất lao động trong một số ngành nhất định.9 Từ các phương diện khác nhau, có thể đưa ra nhiều định nghĩa về di cư song nhìn chung di cư được hiểu là sự thay đổi nơi sinh sống của con người từ đơn vị lãnh thổ này sang đơn vị lãnh thổ khác, trong một khoảng thời gian xác định và gắn với sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ quốc gia của sự dịch chuyển nơi cư trú của lao động mà có di cư quốc tế và di cư nội địa. Theo Công ước năm 1990 của Liên Hiệp Quốc về quyền của NLĐ di trú và thành viên gia đình họ thì “NLĐ di trú để chỉ một người đã đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân”. Công ước số 97 về NLĐ di trú định nghĩa10:“Lao động di cư là chỉ một người di trú từ một nước này sang nước khác nhằm làm thuê cho người khác, từ này bao gồm mọi người nào đã được thường xuyên chấp nhận là có tư cách NLĐ di trú. Còn người di cư nội địa được hiểu là “người dịch chuyển từ huyện/quận này sang huyện/quận khác trong vòng 5 năm trước thời điểm điều tra và thoả mãn một trong ba điều kiện sau: (i) Đã cư trú ở nơi điều tra từ 1 tháng trở lên; (ii) Cư trú ở nơi điều tra mới được 1 tháng nhưng có ý định ở từ 1 tháng trở lên; (iii) Cư trú ở nơi điều tra mới dưới 1 tháng nhưng trong vòng 1 năm qua đã rời khỏi nơi thường trú đến ở một quận/huyện khác với thời gian tích luỹ từ 1 tháng trở lên để lao động kiếm tiền”.11 Dưới góc độ quản lý lao động, lao động di cư bao gồm người tham gia quan hệ lao động khu vực kết cấu và lao động di cư phi kết cấu. Ở góc độ khái quát nhất, có thể hiểu lao động di cư tham gia vào quan hệ lao động thuộc khu vực kết cấu là những người có giao kết hợp đồng lao động, chủ yếu làm việc trong các doanh nghiệp, nhà máy, khu chế xuất, công nghiệp. Lao động di cư phi kết cấu là những lao động tự do, làm công việc thời vụ, ngắn hạn và không có hợp đồng lao động. Đây là nhóm đối tượng nhận sự quan tâm đặc biệt từ góc độ nghiên cứu xã hội học, luật pháp.
Mục đích của lao động di cư thường là tìm kiếm và cải thiện sinh kế cho bản thân và gia đình. Theo thống kê năm 2015, 13,6% dân số cả nước là người di cư, trong đó người di cư ở độ tuổi lao động (15 – 59) tuổi chiếm 17,3%. Người di cư từ nông thôn chiếm đa số với 79,1% trong tổng số người di cư.12 Lao động di cư còn có đặc điểm là số lượng lao động di cư ngày càng tăng và không đồng đều giữa các vùng. Báo cáo của Tổng cục thống kê cho thấy, trong giai đoạn 1999-2012 tỷ lệ lao động di cư giữa các tỉnh tăng từ 4,0% lên 5,4%. Đến năm 2015, tỷ lệ di cư chiếm 13,6% dân số. Tỷ lệ người di cư giữa các vùng không đồng đều, trong đó các vùng có tỷ suất lao động di cư cao nhất toàn quốc thuộc về Bắc Trung bộ, duyên hải Miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long.13 Có thể nói, lực hút việc làm và thu nhập là căn nguyên giải thích cho dòng di cư nông thôn – đô thị.14
1.2 Các nhóm biện pháp đảm bảo việc làm cho lao động di cư
“Bảo đảm” được hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.15 Theo đó, biện pháp bảo đảm việc làm cho lao động di cư được hiểu là cách thức thích hợp, hiệu quả được thực hiện bởi nhà nước và xã hội để tạo ra tiền đề, điều kiện cần thiết để NLĐ di cư có được công việc cụ thể mang lại thu nhập cho họ và không bị pháp luật cấm. Theo nghiên cứu, có tới 76% người nhập cư tại Hà Nội và 60% người nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh chưa qua đào tạo nghề.16 Đây là nguyên nhân làm cho NLĐ di cư yếu thế hơn so với NLĐ tại nơi đến trong việc cạnh tranh tìm kiếm và bảo đảm việc làm. Nhóm đối tượng này cũng có nhiều nguy cơ bị bóc lột sức lao động, dễ bị tuyển dụng trái phép hoặc làm những việc không có sự bảo vệ của pháp luật, làm việc không có hợp đồng lao động.17 Vì vậy, bảo đảm việc làm cho lao động di cư là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm thu nhập, đảm bảo đời sống và là tiền đề để tiếp cận an sinh xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Nhóm biện pháp kinh tế-xã hội
Các biện pháp xã hội được sử dụng để tác động đến ý thức và môi trường xã hội nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho NLĐ di cư thực hiện quyền. Lao động di cư cần được nhìn nhận một cách bình đẳng trong việc tìm kiếm cơ hội việc làm từ các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách, người sử dụng lao động. Các biện pháp kinh tế – xã hội trong đảm bảo việc làm cho lao động di cư được thực hiện thông qua các hoạt động như: truyền thông về cơ hội việc làm, tiêu chuẩn, kỹ năng cần thiết để tìm kiếm việc làm ở nơi di cư đến; Đẩy mạnh đào tạo nghề cho NLĐ di cư phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt trong bối cảnh khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển không ngừng trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, cần thay đổi nhận thức của NLĐ di cư. Ngoài nỗ lực của Nhà nước trong việc đảm bảo việc làm cho lao động di cư thì nâng cao nhận thức của lao động di cư cũng quan trọng không kém. Lao động di cư cần chủ động nắm bắt cơ hội việc làm phù hợp với khả năng, nguyện vọng, sức khoẻ và trình độ chuyên môn của bản thân. Biện pháp thay đổi nhận thức của NLĐ di cư được thực hiện thông qua nhiều hoạt động như Nhà nước xây dựng hành lang pháp lý ghi nhận quyền bình đẳng của người dân nói chung và lao động di cư nói riêng về cơ hội việc làm. Thúc đẩy tất cả hoạt động tự tạo việc làm, hỗ trợ NLĐ tạo việc làm cũng là cách thức hiệu quả trong việc đảm bảo việc làm cho lao động di cư bởi nó giúp NLĐ di cư duy trì việc làm và thu nhập, từ đó góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội.
- Biện pháp pháp lý
Biện pháp pháp lý là cách thức bảo đảm việc làm cho lao động di cư một cách đầy đủ và hiệu quả. Biện pháp này được thực hiện thông qua hệ thống công cụ, yếu tố pháp lý để ghi nhận quyền của lao động di cư bằng pháp luật và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực và bộ máy nhà nước. Biện pháp này thể hiện thông qua việc Nhà nước ghi nhận đầy đủ quyền tiếp cận việc làm công bằng, quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc đối với mọi người, trong đó có lao động di cư; quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan nhà nước, NSDLĐ và các chủ thể khác trong việc đảm bảo việc làm cho lao động di cư. Đảm bảo việc làm cho lao động di cư được thực hiện bằng hệ thống cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hệ thống cơ quan lập pháp có nhiệm vụ thông qua các văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận quyền của lao động di cư nội địa và trách nhiệm của các chủ thể liên quan. Hệ thống cơ quan hành pháp có thẩm quyền ban hành văn bản dưới luật để cụ thể hoá luật pháp do cơ quan lập pháp ban hành. Đồng thời, hệ thống cơ quan hành pháp còn đảm nhiệm việc tổ chức thực thi và áp dụng pháp luật trong các quan hệ xã hội có sự tham gia của lao động di cư, từ đó giúp cho việc đảm bảo việc làm của lao động di cư được hiện thực hoá. Hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử các tranh chấp, áp dụng pháp luật để xử lý các vi phạm nhằm đảm bảo cho công lý được thực thi.
2. Thực trạng pháp luật về đảm bảo việc làm cho lao động di cư
Nhằm đảm bảo việc làm cho NLĐ nói chung và NLĐ di cư nói riêng, nâng cao chức năng giải quyết việc làm của các cơ quan chức năng, Tổ chức Lao động quốc tế đã ban hành các Công ước về vấn đề này. Công ước số 88 của Tổ chức Lao động quốc tế về Tổ chức dịch vụ việc làm quy định tiêu chuẩn, chức năng và tổ chức của các trung tâm dịch vụ quốc gia về việc làm đã đưa ra các quy định như khuyến khích chính phủ các nước duy trì hệ thống dịch vụ việc làm miễn phí; bảo vệ và tăng khả năng có và duy trì việc làm của NLĐ… Công ước số 163 về xúc tiến việc làm và bảo vệ chống nạn thất nghiệp năm 1988 quy định khuyến khích việc làm có hiệu quả qua các hình thức như dịch vụ việc làm, đào tạo nghề, hướng nghiệp; hỗ trợ NLĐ thất nghiệp.
Việt Nam cũng rất chú trọng đến vấn đề đảm bảo việc làm cho NLĐ nói chung và NLĐ di cư nói riêng, thể hiện thông qua hệ thống pháp luật, từ Hiến pháp năm 2013 đến Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Việc làm năm 2013… Trong đó, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận các quyền đảm bảo an sinh xã hội và quyền về việc cho mọi công dân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đảm bảo và tạo điều kiện cho NLĐ di cư tiếp cận việc làm.
Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: Người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải ưu tiên đào tạo lại cho NLĐ để tiếp tục sử dụng nếu có chỗ làm mới trong trường hợp doanh nghiệp thay đổi cơ cấu công nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm của NLĐ; NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc sa thải NLĐ trái pháp luật dẫn đến NLĐ bị mất việc làm; Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nhằm duy trì, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho NLĐ; Quy định điều kiện chặt chẽ về căn cứ và thủ tục khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với NLĐ. Theo đó, NSDLĐ chỉ được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với NLĐ khi có các căn cứ được liệt kê tại Điều 36 Bộ luật Lao động. Quy định này nhằm tránh tình trạng NSDLĐ chấm dứt hợp đồng lao động với NLĐ một cách tuỳ tiện, đảm bảo việc làm cho NLĐ.
Luật Việc làm năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước, của NSDLĐ trong việc đảm bảo việc làm cho NLĐ. Theo đó, Nhà nước cần có chính sách phát triển kinh tế – xã hội nhằm tạo việc làm cho NLĐ, xác định mục tiêu giải quyết việc làm trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; khuyến khích các hình thức tự tạo việc làm; có chính sách hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động và bảo hiểm thất nghiệp,… (Điều 5). NSDLĐ có trách nhiệm đảm bảo việc làm cho NLĐ theo thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động, có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ (Khoản 1 Điều 44). Đảm bảo việc làm cho NLĐ còn được thể hiện thông qua quy định về bảo hiểm thất nghiệp. Theo quy định của Luật Việc làm thì đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có thời hạn từ 03 tháng trở lên (Điều 43). Như vậy, nếu NLĐ di cư đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình, NLĐ di cư giao kết hợp đồng lao động dưới 03 tháng hoặc không làm việc theo hợp đồng lao động sẽ không được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều đó có nghĩa, nhóm lao động di cư ở khu vực phi kết cấu không được hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp, bao gồm chế độ hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm, chế độ hỗ trợ học nghề để đảm bảo duy trì việc làm và tái tham gia vào thị trường lao động khi rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Thực tế cho thấy, dưới tác động của đại dịch Covid-19, việc làm là vấn đề lớn nhất mà lao động di cư gặp phải sau đại dịch Covid-19. Theo thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của người di cư năm 2020 là 9,82% (cao gấp gần 5 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên). Trong số đó, tỷ lệ thất nghiệp của người di cư ở nông thôn cao hơn thành thị, tương đương 11,18% và 9,08%.18 Năm 2021, tình trạng khủng hoảng việc làm cũng diễn ra nghiêm trọng, hàng triệu lao động bị mất việc làm, bị cắt giảm thu nhập. Cơ hội kiếm được việc làm của người lao động di cư trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quý III/2021, tỷ lệ và số người thiếu việc làm tăng cao bất thường; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh là 8,50%, cao hơn 3,6 lần so với thành phố Hà Nội (2,39%); tỷ lệ thất nghiệp tăng đột biến, vượt xa con số 2% như thường thấy.19 Mặc dù năm 2022, tỷ lệ có việc làm trong độ tuổi đã tăng hơn so với năm 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 được kiểm soát tốt hơn, tuy nhiên, số lượng người thiếu việc làm trong độ tuổi năm 2022 vẫn chiếm khoảng 991,5 nghìn người. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2022 là 2,21%, giảm 0,89 điểm phần trăm so với năm trước.20 Dưới tác động của đại dịch Covid-19, xuất hiện tình trạng “di cư ngược”, đó là xu hướng lao động di cư từ thành thị về nông thôn do việc làm ở thành thị giảm mạnh.
Có thể thấy, các quy định trên hướng tới NLĐ nói chung mà chưa có quy định riêng đảm bảo việc làm cho nhóm lao động di cư, đặc biệt là lao động di cư làm việc ở khu vực phi chính thức. Các quy định mới dừng lại ở việc đào tạo nghề và cung cấp thông tin về việc làm mà không có quy định về đào tạo kỹ năng mềm để lao động di cư từ nông thôn ra thành thị có thể tìm kiếm việc làm và duy trì việc làm. Trong khi đó, tỷ lệ NLĐ di cư làm việc không ký hợp đồng lao động vẫn còn khá phổ biến. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 46,2 % lao động nông thôn di cư số trong số 7.800 lao động không được ký hợp đồng lao động.21 Hơn nữa, tỷ lệ thất nghiệp của nhóm đối tượng này khá cao. Theo nghiên cứu, tỷ lệ thất nghiệp của NLĐ di cư cao gần gấp năm lần tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 15 tuổi trở lên, tập trung chủ yếu ở nhóm thanh niên 15-24 tuổi. Không những thế, lao động di cư làm việc ở khu vực phi kết cấu ít được đào tạo tay nghề nên họ gần như không cạnh tranh được trên thị trường lao động chính thức ở nơi đến. Vì vậy, nhóm lao động này thường có công việc bấp bênh, thiếu ổn định, thậm chí là ít lựa chọn nên thường phải tham gia công việc nhiều rủi ro hay nguy cơ cao ảnh hưởng đến sức khoẻ.22 Hầu hết lao động di cư có mức thu nhập cơ bản chưa đáp ứng đủ nhu cầu sống tối thiểu.23 Đặc biệt, dưới tác động của sự phát triển vượt bậc trong khoa học, công nghệ, lao động giản đơn với tính chất công việc lặp đi lặp lại hoàn toàn có thể bị thay thế bởi máy móc, công nghệ, rô – bốt thì việc lao động di cư không được ký hợp đồng lao động, không được tham gia bảo hiểm thất nghiệp, không được bảo đảm việc làm theo quy định của Bộ luật Lao động sẽ có khả năng xảy ra tình trạng mất việc làm.
So sánh với Trung Quốc, vấn để đảm bảo việc làm cho lao động di cư đã được quốc gia này chú trọng thông qua việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật để thúc đẩy việc làm cho lao động nông thôn từ rất sớm. Theo đó, trong 20 năm qua, một loạt chính sách và biện pháp đã được xây dựng ở cấp quốc gia và địa phương đã tăng cường cung cấp dịch vụ cho lao động di cư ở nông thôn. Cụ thể, ngay từ những năm 1991- 2001, quốc gia này đã tiến hành thí điểm nhiều dự án, chương trình để giải quyết việc làm cho lao động di cư nhằm mở rộng việc làm ở khu vực nông thôn, tạo việc làm, nâng cao chất lượng và năng lực của lao động nông thôn. Chính phủ Trung Quốc còn thúc đẩy chính quyền địa phương và các ban ngành thay đổi phương pháp quản lý và đối xử bình đẳng với lao động nhập cư ở nông thôn. Với việc thành lập hệ thống dịch vụ việc làm công được cấp ngân sách từ nguồn thu công, quy mô cung cấp dịch vụ miễn phí và đào tạo miễn phí cho lao động di cư ở nông thôn cũng dần được mở rộng. Các cơ quan dịch vụ việc làm công cung cấp dịch vụ giới thiệu việc làm miễn phí cho lao động nông thôn đã đăng ký tìm việc làm ở thành thị và trợ cấp cho các cơ quan dịch vụ việc làm cũng được thực hiện tích cực. Trung Quốc cũng thực hiện chương trình tích hợp thị trường lao động nông thôn và thành thị ở những khu vực có nền tảng tốt và thực tiễn tốt nhất về việc làm, quản lý và dịch vụ xã hội.24
Bên cạnh hệ thống pháp luật, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội còn thực hiện dự án “Phát triển thị trường lao động và việc làm” (năm 2017), trong đó có nội dung hỗ trợ lao động nông thôn di cư ra thành thị, các khu công nghiệp và lao động vùng biên. Với nội dung này, hai hoạt động được triển khai bao gồm: (i) khảo sát tình hình lao động di cư tại các tỉnh, thành phố, vùng kinh tế trọng điểm và các tỉnh giáp biên giới; (ii) hỗ trợ lao động di cư tại Trung tâm dịch vụ việc làm, bao gồm: tư vấn, cung cấp thông tin lao động, việc làm; Tư vấn nghề nghiệp, giới thiệu việc làm; Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn các kỹ năng tìm việc, làm việc. Tuy nhiên, vấn đề đảm bảo việc làm cho NLĐ di cư chưa được đảm bảo khi mà sự thay đổi trong cơ cấu lao động, việc làm đang diễn ra sôi động, nhất là trong bối cảnh khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ làm dẫn tới tình trạng những công việc giản đơn, có tính chất lặp lại có thể bị thay thế. Trong những năm qua, đồng bằng sông Cửu Long đã có một tỷ lệ chuyển dịch địa vị nghề cao, thể hiện sự thay đổi trong cơ cấu lao động, việc làm và thể hiện tính bất ổn định về nghề nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi khoa học, công nghệ, môi trường và khí hậu. Tỷ lệ thay đổi địa vị nghề diễn ra nhiều nhất ở nhóm những người làm công nhân và lao động có kỹ năng.25 Do đó, sự thiếu hụt các quy định nhằm đảm bảo việc thực thi quy định pháp luật về đảm bảo việc làm cho lao động di cư dẫn đến tình trạng nhóm lao động này dễ dàng rơi vào tình trạng mất việc làm và bị vi phạm hợp đồng lao động đối với lao động di cư làm việc ở khu vực kết cấu.26
Thêm vào đó, sự phát triển của công nghệ đã kéo theo sự xuất hiện của rất nhiều hình thức việc làm mới trong đó nổi bật là hình thức làm việc thông qua nền tảng lao động số. Theo ông Guy Ryder, Tổng Giám đốc của tổ chức Lao động quốc tế ILO thì các nền tảng lao động kỹ thuật số đang mở ra những cơ hội trước đây chưa từng có. Mọi NLĐ dù có vị thế việc làm nào đi nữa, đều cần được thực thi các quyền cơ bản của mình trong lao động. Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, hình thức việc làm thông qua nền tảng lao động số trong lĩnh vực vận chuyển như: Be, Gojek, FastGo, Taxi Go,… trở nên phổ biến và chiếm lĩnh thị trường so với hình thức truyền thống. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có những quy định nào cụ thể hay văn bản nào hướng dẫn trực tiếp về việc xác định quan hệ pháp lý giữa người lái xe và công ty công nghệ. Mặc dù, mối quan hệ giữa hai chủ thể này có chứa đựng các đặc trưng của quan hệ dân sự và trên thực tế, các bên trong quan hệ này thoả thuận ký kết “hợp đồng hợp tác kinh doanh” để thoả thuận quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tuy nhiên, mối quan hệ này cũng chứa đựng rất nhiều dấu hiệu của quan hệ việc làm do Tổ chức Lao động quốc tế -ILO xây dựng27 và các đặc trưng của quan hệ lao động như có sự điều hành, giám sát, đánh giá công việc… từ phía công ty đối với người lái xe. Do vậy, việc chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ giữa công ty công nghệ với người lái xe công nghệ dẫn đến thực trạng quyền và lợi ích hợp pháp về tiền lương, về đảm bảo việc làm… của NLĐ nói chung và lao động di cư nói riêng chưa được đảm bảo.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đảm bảo việc làm cho lao động di cư
Như trên đã phân tích, lao động di cư ở khu vực phi kết cấu chưa được bảo vệ khi rơi vào tình trạng thất nghiệp do không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Trong khi đó, họ là nhóm đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế quốc gia và nhóm có nguy cơ mất việc làm cao. Vì vậy, pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp cần được nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bao quát tới nhóm người lao động làm việc không có hợp đồng lao động, tương tự như hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện. Quy định này vừa nhằm mục đích đảm bảo việc làm cho nhiều nhóm đối tượng hơn vừa tạo sự bình đẳng giữa các nhóm đối tượng khác nhau, vừa tạo sự thu thút để tăng số lượng NLĐ tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Dưới tác động của sự phát triển khoa học công nghệ, thị trường lao động Việt Nam sẽ đối mặt với những thách thức to lớn, trong đó có vấn đề đảm bảo việc làm cho lao động di cư. Đây cũng là xu hướng chung của thế giới. Thực tế, một số vị trí việc làm cần trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp như công nhân lắp ráp, nhân viên rửa bát, người soát vé… đã bị thay thế bởi máy móc. Do đó, vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu một cách cụ thể công nghệ đã và sẽ thay đổi thị trường lao động và nền kinh tế như thế nào để tìm giải pháp cho việc đảm bảo việc làm. Từ đó, pháp luật cần phải có sự thay đổi để thích ứng với sự biến động của thị trường lao động, đặc biệt pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng diện bao phủ đối tượng tham gia, mở rộng quyền lợi và phạm vi hưởng để trở thành một công cụ hiệu quả trong việc đảm bảo việc làm cho người lao động nói chung và NLĐ di cư nói riêng. Từ đó, đảm bảo NLĐ di cư được hỗ trợ đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm một cách hiệu quả để sớm thích ứng với việc làm mới để sớm quay lại thị trường lao động.
Kinh nghiệm từ Hoa Kỳ cho thấy, để thích ứng với yêu cầu về việc làm trong bối cảnh kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát triển bùng nổ, quốc gia này có sự chuẩn bị từ rất sớm bằng cách đầu tư vào thế hệ trẻ, từ hệ thống giáo dục trong nhà trường. Theo đó, các trường học nên giáo dục thế hệ trẻ trở thành người nhanh nhẹn, dễ thích nghi, tập trung vào đào tạo kỹ năng để thích nghi được với những thay đổi về việc làm trong tương lai.28 Việt Nam cũng cần cân nhắc rà soát, chỉnh sửa lại chương trình đào tạo ở tất cả các cấp học, trong đó, bổ sung thêm các môn học trang bị kỹ năng mềm cho người học nhằm thích ứng với sự thay đổi không ngừng của khoa học công nghệ.
Học hỏi kinh nghiệm từ Trung Quốc trong việc thực hiện các biện pháp đảm bảo việc làm cho NLĐ, Việt Nam cũng cần thí điểm các chính sách đảm bảo việc làm cho lao động di cư. Các chính sách như thành lập hệ thống dịch vụ việc làm công do ngân sách nhà nước, quỹ quốc gia về việc làm hỗ trợ để cung cấp dịch vụ miễn phí và đào tạo miễn phí cho lao động di cư ở nông thôn, lao động nông thôn đã đăng ký tìm việc làm ở thành thị. Các tổ chức dịch vụ việc làm cần thông tin đến người lao động một cách nhanh chóng, kịp thời và đáng tin cậy các thông tin về tuyển dụng từ các doanh nghiệp
có trụ sở tại địa phương mình có nhu cầu tuyển dụng lao động nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lao động tại chỗ một cách lâu dài. Đồng thời, mỗi địa phương cần nắm bắt, đánh giá được nhu cầu di cư của NLĐ để có chính sách đào tạo nghề phù hợp và xây dựng chính sách phát triển đồng đều các vùng để giảm bớt mức độ di chuyển lao động và giảm bớt gánh nặng kinh tế – xã hội của thành phố.
Nhà nước cần khuyến khích người lao động di cư tự tạo việc nhằm đảm bảo việc làm cho nhóm đối tượng này. Các hình thức khuyến khích có thể được thực hiện thông qua việc hoàn thiện các quy định về ưu đãi cho vay theo hướng đơn giản hoá thủ tục, điều kiện cho vay để NLĐ di cư có thể dễ dàng tiếp cận vốn.
Pháp luật cần có những dự liệu cho tương lai trong vấn đề đảm bảo việc làm cho lao động di cư khi xảy ra dịch bệnh nguy hiểm hay những trường hợp khác tương tự. Thực tế từ ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 thời gian qua cho thấy, thị trường lao động bị rơi vào khủng hoảng trầm trọng khi một số lượng rất lớn NLĐ di cư rời bỏ thành thị trở về quê hương. Tình trạng này dẫn đến hệ quả nhiều doanh nghiệp ở thành thị thiếu lao động trầm trọng trong khi lao động khu vực nông thôn lại dư thừa. Vì vậy, pháp luật cần có những quy định mang tính chất dự liệu để điều tiết dòng dịch chuyển lao động, đảm bảo việc làm ổn định cho lao động di cư.
Đối với các quan hệ về việc làm trong thời kỳ thế hệ số phát triển ngày càng mạnh mẽ, Việt Nam chúng ta dường như đang chậm hơn so với một số quốc gia trên thế giới về việc đưa ra những cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội của đất nước, chẳng hạn hình thức việc làm thông qua nền tảng lao động số. Việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ này là rất cần thiết và phù hợp với xu hướng chung của quốc tế. Trường hợp, pháp luật thừa nhận mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ việc làm trên nền tảng lao động số là quan hệ lao động thì một lực lượng lớn NLĐ, trong đó có lao động di cư có thể được pháp luật lao động, pháp luật việc làm bảo vệ, từ đó, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho vấn đề đảm bảo việc làm cho nhóm đối tượng lao động di cư.
Kết luận
Đảm bảo việc làm cho lao động di cư là vấn đề các quốc gia đều quan tâm. Đặc biệt, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp phát triển một cách bùng nổ trong những năm gần đây, làm cho một số công việc giản đơn, trình độ kỹ thuật thấp bị thay thế bởi máy móc, thiết bị và xuất hiện nhiều hình thức việc làm mới. Đảm bảo việc làm cho lao
động di cư cần được thực hiện đồng bộ bằng cả nhóm biện pháp kinh tế-xã hội và biện pháp pháp lý. Pháp luật Việt Nam về đảm bảo việc làm cho lao động di cư đang tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định như: pháp luật chưa có quy định riêng đảm bảo việc làm cho lao động di cư, đặc biệt là lao động di cư làm việc ở khu vực phi kết cấu. Lao động di cư ở khu vực phi kết cấu chưa thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp nên chưa được pháp luật bảo hiểm thất nghiệp bảo vệ khi rơi vảo tình trạng mất việc làm. Pháp luật Việt Nam cũng chưa quy định rõ ràng trong việc xác định mối quan hệ pháp lý giữa các chủ thể làm việc thông hình thức nền tảng lao động số. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần được hoàn thiện theo hướng quy định nhóm người lao động di cư làm việc ở khu vực phi kết cấu được tham gia bảo hiểm thất nghiệp, quy định chính sách ưu đãi, khuyến khích lao động di cư tự tạo việc làm, ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ việc làm thông qua hình thức lao động nền tảng số.
Danh mục các trich dẫn trong Bài viết:
1 Đoàn Thị Hoàn, Phạm Thị Ninh, Phục hồi sinh kế cho lao động di cư sau đại dịch Covid-19 ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM247339
2 Tạp chí Giáo dục. (2019). Chính sách việc làm cho lao động di cư.
https://tapchigiaoduc.moet.gov.vn/vi/dao-tao-viec-lam/dao-tao-viec-lam/chinh-sach-viec-lam-cho-lao-dong-di- cu-55.html, truy cập ngày 27/4/2023
-en/index.htm
4 Lưu Bình Nhưỡng. (2004). Việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, chuyên đề đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “việc làm và giải quyết việc làm trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Đại học Luật Hà Nội.
5 Adam Saunders. Technology’s impact on growth and employment. https://www.bbvaopenmind.com/en/articles/technology-s-impact-on-growth-and- employment/#:~:text=Throughout%20history%2C%20machines%20have%20helped,so%20too%20did%20job
%20growth.
6 Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.184
7 Lâm Thanh Nhựt. (2016). Pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn thi hành tại huuyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật, Hà Nội, tr.6
8 Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của các nhà thống kê lao động Tổ chức lao động quốc tế
9 The International Organization for Migration (IOM). How do migrants contribute to society? https://rosanjose.iom.int/en/blogs/how-do-migrants-contribute-society
10 Khoản 1 Điều 1 Công ước số 97 Công ước về NLĐ di trú xét lại năm 1949, ngày có hiệu lực 22/01/1952.
11 Tổng cục Thống kê, Quỹ dân số Liên Hợp quốc. (2015). Điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015: các kết quả chủ yếu. Hà Nội: Thông tấn, tr.9
12 Tlđd, 10, 3, tr.21
13 Lê Văn Sơn. (2014). Lao động di cư nội địa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 1(74)
– 2014
14 Vũ Minh Tiến. (2017). Sinh kế bền vững cho nhóm lao động yếu thế là lao động nghèo nhập cư thành thị ở Việt Nam, chuyên đề hội thảo khoa học quốc tế “vấn đề pháp luật đặt ra đối với lao động di cư – kinh nghiệm Việt Nam và Trung Quốc”, Đại học Luật Hà Nội
15 Viện Ngôn ngữ học. (2003). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: Trung tâm Từ điển học, tr.38
16 Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2014), Di cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tại Việt Nam
17 Tlđd, 13, 4
18 Tổng cục Thống kê. (2020). Báo cáo điều tra Lao động việc làm năm 2020, Nxb. Thống Kê, tr.49,50
19 Tổng cục Thống kê.(2021). Báo cáo tác động của dịch Covid-19 đến tình hình Lao động việc làm quý III năm 2021
20 Tổng cục Thống kê (2022). Báo cáo tình hình thị trường Lao động việc làm quý IV năm 2022
21 Dương Thị Hải Yến (2021,) Một số vấn đề về quyền làm việc của nữ lao động di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học-trường Đại học Mở Hà Nội, 83 (09/2021), 1-9
22 Vũ Minh Tiến.(2017). Sinh kế bền vững cho nhóm lao động yếu thế là lao động nghèo nhập cư thành thị ở Việt Nam, chuyên đề hội thảo khoa học quốc tế “vấn đề pháp luật đặt ra đối với lao động di cư – kinh nghiệm Việt Nam và Trung Quốc”, Đại học Luật Hà Nội, 2017
23 Oxfam.(2015). Rào cản pháp luật và thực tiễn đối với hoạt động di cư trong tiếp cận an sinh xã hội.
24 Bộ Nguồn nhân lực và An sinh xã hội Trung Quốc, Tổ chức Lao động Quốc tế.(2011). Báo cáo chính sách việc làm – Trung Quốc: Thúc đẩy việc làm bền vững cho lao động nhập cư ở nông thôn
25 https://consosukien.vn/an-sinh-xa-hoi-cho-lao-dong-di-cu.htm
26 Oxfam. (2015). Báo cáo tóm tắt rào cản pháp luật và thực tiễn đối với NLĐ di cư trong tiếp cận an sinh xã hội.
27 Khuyến nghị số 198 năm 2006 của Tổ chức lao động quốc tế ILO
28 Tlđd, 4, 2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Nguồn nhân lực và An sinh xã hội Trung Quốc, Tổ chức Lao động Quốc tế.(2011). Báo cáo chính sách việc làm – Trung Quốc: Thúc đẩy việc làm bền vững cho lao động nhập cư ở nông thôn;
- Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.184
- Dương Thị Hải Yến (2021,) Một số vấn đề về quyền làm việc của nữ lao động di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học-trường Đại học Mở Hà Nội, 83 (09/2021), 1-9
- Khuyến nghị số 198 năm 2006 của Tổ chức lao động quốc tế ILO
- Lâm Thanh Nhựt. (2016). Pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn thi hành tại huuyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật, Hà Nội, tr.6
- Lê Văn Sơn. (2014). Lao động di cư nội địa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 1(74) – 2014;
- Liên Hợp Quốc tại Việt (2014). Di cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tại Việt Nam;
- Lưu Bình Nhưỡng. (2004). Việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, chuyên đề đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “việc làm và giải quyết việc làm trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Đại học Luật Hà Nội.
- (2015). Rào cản pháp luật và thực tiễn đối với hoạt động di cư trong tiếp cận an sinh xã hội;
- Tổng cục Thống kê (2022). Báo cáo tình hình thị trường Lao động việc làm quý IV năm 2022;
- Tổng cục Thống kê, Quỹ dân số Liên Hợp quốc. (2015). Điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015: các kết quả chủ yếu. Hà Nội: Thông tấn, tr.9
- Tổng cục Thống kê. (2020). Báo cáo điều tra Lao động việc làm năm 2020, Thống Kê, tr.49,50;
- Tổng cục Thống kê.(2021). Báo cáo tác động của dịch Covid-19 đến tình hình Lao động việc làm quý III năm 2021;
- Viện Ngôn ngữ học. (2003). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: Trung tâm Từ điển học, 38;
- Vũ Minh Tiến.(2017). Sinh kế bền vững cho nhóm lao động yếu thế là lao động nghèo nhập cư thành thị ở Việt Nam, chuyên đề hội thảo khoa học quốc tế “vấn đề pháp luật đặt ra đối với lao động di cư – kinh nghiệm Việt Nam và Trung Quốc”, Đại học Luật Hà Nội, 2017